Khái luận:
1. Bản chất:
3. Tác dụng:
4. Địa điểm:
5. Đồ lễ:
6. Tiến hành Cúng tế:
7. Lễ Bái:
8. Văn khấn :
9. Lễ tạ:
10. Ăn giỗ:
Đôi điều kết lại:
Khái luận:
Cho đến nay, tôi chưa tìm thấy tư liệu nào chỉ rõ việc Thờ, Cúng, Lễ, Bái được bắt đầu từ bao giờ, khởi nguồn từ đâu?. Tôi mạo muội suy đoán rằng: nơi nào có con người sinh sống và được tổ chức thành xã hội thì từ những hoạt động cộng đồng vui mừng tự phát ban đầu dần hình thành những nghi thức, trong đó vấn đề này. Như vậy, có thể nói nó hiện hữu cùng với sự có mặt của con người ngay từ thuở sơ khai (trước cả tôn giáo) và đồng hành chưa biết tới bao giờ!
Tế lễ thờ phụng (H: 祭禮, A: The cult and sacrifice, P: Le culte et le sacrifice) được hình thành, bổ sung, hoàn thiện, lưu truyền trong lòng dân nên đương nhiên có dị biệt từng vùng miền, dòng họ. Song giống nhau ở mục đích, tác dụng, nơi tiến hành. Với người Việt, đã trở thành “Lễ nghi phong hóa” (H: 禮儀風化, A: Ceremonies and manners, P: Cérémonies et moeurs) tức là cách thức bày ra trong sự cúng tế cho được trật tự, trang nghiêm, kính cẩn đã thành phong tục tạp quán của cả dân tộc. Đó là vấn đề Tâm linh (H: 心靈, A: The soul, P: L' âme), là điều thiêng liêng thấm vào máu thịt mỗi người.
Trong xã hội Việt từ cổ đại đã tồn tại mối quan hệ sâu sắc xây dựng trên cơ sở huyết thống. Do vậy, việc thờ cúng, lễ bái đã được chắt lọc từ ngàn đời, được hấp thụ tinh hoa từ các tôn giáo và lân bang trở thành một trong những Gia Bảo 家寶tinh thần đáng quý của Tổ Tiên để lại mà lớp hậu sinh cần coi trọng, tất nhiên có cải tiến cho phù hợp với thời đại.
Ngoài thờ Tổ tiên (H: 祖宗, A: The ancestors, P: Les ancêtres) những người theo Phật giáo hay không theo tôn giáo nào ở ta còn thờ Thần linh (H: 神靈, A: The spirits, P: Les esprits, các Đấng thiêng liêng trong thế giới vô hình); thờ Phật (H: 佛, A: Buddha, P: Bouddha); thờ Thổ công - Thổ địa - Thổ kỳ (H: 土公 - 土地 - 土祇, A: The Genii of the home, P: Les Génies de la maison, ba vị Thần coi việc nhà cửa trong mỗi gia đình, gọi chung là: Định Phúc Táo Quân, nói nôm na là Ba vị Táo).
Nhưng người hiểu rõ ý nghĩa và giá trị vấn đề thì ít, người hiểu thiếu đầy đủ, lệch lạc, có thể coi thường nhưng cũng có khi thái quá lại lắm. Với những người xa quê lâu ngày, ông, bà, cha, mẹ mất sớm, trước vốn khó khăn nay mới đủ ăn… thì càng lơ mơ về ý nghĩa, giá trị và cách thức của các “Lễ nghi phong hóa” thiêng liêng này. Khi “Phú quý sinh lễ nghĩa” 富貴生禮義 nhưng ít người thấu tỏ, chỉ bảo chân tình lại “loạn thầy, bà”, lắm người “bỗng dưng được Cô cho lộc”…lại thêm sách báo không thiếu điều nhảm nhí, sao chép sai lạc đầy rẫy và theo trào lưu chung “thương mại hoá” hiện nay thì vấn đề Thờ, Cúng, Lễ, Bái dễ tạp nham, không tạo được niềm tin vững chắc cho thế hệ con trẻ.
Bên cạnh đó, trong thời “kinh tế mở” đã xuất hiện ngày càng lắm người lợi dụng niềm tin và sự hiểu biết thiếu căn bản nhưng lại hay bắt chước của đa số dân chúng nên đã lái nhiều vấn đề “Tâm linh” thành “tín ngưỡng mù quáng” để trục lợi. Thực tế đã có những nghi thức vô nghĩa, những đồ lễ ngoại lai…khiến cho việc Thờ, Cúng, Lễ, Bái trở nên bí hiểm, lắm thủ tục nhiêu khê, tốn kém. Điều này vừa thiệt cho tín chủ vừa ảnh hưởng đến xung quanh, đến xã hội!.
Ngược lại có một vài “Trí thức nửa vời”, các ông “quan cách mạng” nông cạn, học hành chắp vá lợi dụng việc này kiếm lời hay tỏ ra thành kiến, bôi bác và kết án…, quá tả khi thực hiện chủ trương “Bài phong đả thực”, coi một số “Thuần phong mĩ tục” thành “mê tín dị đoan”. Vì thế có nơi, có lúc có người không dám thắp nhang, thờ cúng Tổ tiên; Chùa chiền, nhà Thờ, Ðình, Miếu, Từ Ðường, bàn thờ trong tư gia bị dẹp bỏ…Từ đường họ tôi được chia cho dân, Chùa, Đình làng phá bỏ trong hoàn cảnh đó. Bởi thế việc Thờ, Cúng, Lễ, Bái vốn thiêng liêng, giầu giá trị nhân văn bị hiểu lệch và làm sai trong thời gian dài.
Do vậy, muốn phục hồi, phát huy giá trị tốt đẹp vốn có của nó, từng người, mỗi gia đình, dòng họ… cần có những hiểu biết nhất định sẽ vừa tránh mất tiền, vừa tránh vô tình làm giảm giá trị truyền thống lại giúp ích được nhiều cho bản thân, gia đình trong cuộc sống, công việc.
1. Bản chất:
Khổng Tử (孔子, còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子, 551 – 479 tCn) trong Chương 第十九章 “Hiếu là nối chí cha ông” khi bàn về lòng hiếu thảo sáng suốt của Võ Vương 武王 và Chu Công 周公, cũng như phương pháp hữu hiệu mà các ngài đã dùng để cải hóa bàn dân đã nói: 事死如事生, 事亡如事存, 孝之至也: “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí dã”. Nghĩa là: Thờ phụng lúc chết như thờ phụng lúc sống, thờ phụng khi mất như thờ phụng khi còn, mới là chí hiếu vậy ! Mà đã “Thờ” thì phải “Cúng”, phải có “Lễ, Bái”. Đây là “Đạo hiếu” (H: 孝道,A: The duty of filial piety, P: Le devoir de la piété filiale), là vấn đề trọng đại của mỗi người, gia đình, gia tộc, tôn giáo!
Tín ngưỡng, phong tục thờ cúng tổ tiên hay có người đã gọi là “Đạo Ông Bà” là tục lệ thờ cúng những người đã chết, đặc biệt là ông, bà, cha, mẹ của nhiều dân tộc Đông Nam Á và đặc biệt phát triển trong văn hóa Việt. Hơn nữa, dân gian tin rằng “Hữu căn hữu kiếp” 有根有劫, có gốc rễ có kiếp sống, tức là có kiếp sống hiện tại là do gốc rễ của các kiếp sống trước tạo nên. Do vậy khi thành danh, có của ăn của để càng nhớ và cần báo ân tiền nhân.
Ngoài Tổ tiên, người Việt còn tin rằng các đấng siêu linh là Thần, Thánh, Phật, Trời cũng luôn ngự trị, theo sát độ trì cho mình trong mỗi công việc! Do vậy để tưởng nhớ Công Đức tiền nhân và đấng bề trên mà mình đã dâng trọn niềm tin cũng như kêu cầu khi cần sự trợ giúp của các “Đấng cao xanh” mà họ duy trì, quan tâm đến việc THỜ CÚNG LỄ BÁI. Đó là vấn đề Tâm linh, là niềm tin rằng người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau, là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm, cõi thực và cõi hư.
Hơn nữa ngay cả các nước công nghiệp phát triển nay ở đâu mà không còn Tôn giáo, Đức tin ? ở đâu cũng có đền, đài, tượng…; năm nào mà có những ngày Lễ Kỷ niệm (Quốc khánh, Danh nhân, Sự kiện…). Mà trong các dịp đó thế nào chẳng có chào cờ, diễn văn, đón nhận phần thưởng; sự kiện lớn còn có cả diễu hành, duyệt binh trọng thể và sau phần “Lễ” là phần “Hội”. Thực chất đó cũng là hoạt động “THỜ CÚNG LỄ BÁI” song đã được “văn minh” hoá, “quốc gia hoá” và do chính quyển chỉ đạo tiến hành còn việc Thờ, Cúng, Lễ, Bái tại gia, tại cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng là do người dân tự giác duy trì theo tập tục truyền từ bao đời! Không lý gì lại không coi trọng điều thiêng liêng đầy tính nhân văn đó!
2. Mục đích:
Việc Thờ phụng, lễ bái được chăm lo bởi ai cũng tin rằng việc đó mang lại lợi lạc cho đời sống của mỗi người, mỗi gia đình, gia tộc, tôn giáo, làng xã, quốc gia. Suy cho cùng, đó là sự trở về nguồn, để tỏ lòng tri ân, để tu tâm, tích đức và giãi bày khi gặp trắc trở của mỗi người.
Thờ nghĩa là thể hiện, tỏ bày sự tôn kính của mình với tiền nhân và với Thần, Thánh, Phật, Chúa thể hiện rõ đạo lý “Trung, Tín, Hiếu”. Ngược lại, con mà không thờ Tổ Tiên là con bất Hiếu; dân mà không thờ Tổ quốc là kẻ bất Trung; tín đồ mà không thờ đức Giáo Chủ của mình là người bất Tín. Đừng có bảo đó là quan niệm thời phong kiến, ngay cả thời @ này với người như thế sẽ không có chỗ đứng trong nhân loại.
Cúng là dâng lễ vật lên thần thánh hoặc linh hồn người chết, theo tín ngưỡng hoặc theo phong tục cổ truyền. Gọi đủ là “Cúng dường”, đó là danh từ của Phật Giáo, được chuyển ngữ từ hai chữ “Cung dưỡng” 龔养 của tiếng Hoa.
- Cung Dưỡng: nghĩa là cung ứng theo sự nhu cầu về vật chất của những kẻ thiếu thốn và nuôi dưỡng khi họ đói cơm rách áo...
- Cúng Dường: (Tiếng Phạm là: Pùjana) nghĩa là dâng hiến những lễ vật lên các bậc tôn kính, mong cầu ơn trên chứng minh. Thêếmà có người từng giảng cho tôi rằng “Cúng dường là nói trại từ cúng Giàng mà “Dàng” là từ cổ chỉ “Trời”.Thật là có trời mới biết đúng sai ra sao nữa?
Người Việt là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm và sớm nhất, nó gần như trở thành một tín ngưỡng. Nhưng đó không phải là tôn giáo vì không có giáo lý, không phụ thuộc vào quan điểm chính trị…“Đã nói tới tín ngưỡng dĩ nhiên có vấn đề tin và không tin”. Đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên là sự hiển nhiên, không có nghi vấn tin hay không tin. Sự thờ cúng chính là sự gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ linh thiêng. Đối với người Việt Nam, chết không có nghĩa là chết hẳn, thể xác tuy chết nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn còn lui tới với gia đình. Thể xác thì tiêu tan, nhưng linh hồn thì bất diệt.
Giỗ là một buổi lễ, nghi thức theo phong tục tập quán của người Việt quan trọng nhất trong việc thờ cúng Tổ tiên, nhằm tưởng nhớ đến những người đã mất. Theo tục lệ, ngày giỗ là “chung thân chi tang” có nghĩa là ngày tang trong suốt cả đời người. Mỗi năm vào đúng vào ngày chết của một người là một lần giỗ (còn gọi là “kỵ nhật”, H: 忌日, A: Anniversary of a death, P: Jour anniversaire du mort) thường được tính theo âm lịch (H: 陰曆, A: The lunar calendar, P: Le calendrier lunaire,hay còn gọi là “ngày ta”) cho nên người xưa thường quan trọng ngày cúng giỗ ông bà cha mẹ. Ý nghĩa của giỗ là để nhắc nhở con cháu về nhưñg người đã đi trước; gắn kết tình cảm của các thành viên trong cùng một gia đình, dòng họ, đôi khi trong cùng nghề. Trong đó Tổ nghề là một người có công lớn đối với một nghề nào đó hoặc giúp phát triển hoặc sáng tạo ra nghề đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập.
Không chỉ ngày giỗ, việc khấn cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng Một(朔日,Sóc nhật), ngày Rằm(朔望,Vọng nhật), và các dịp Lễ, Tết. Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử... hoặc gặp điều gì đó trắc trở, người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, che chở, dẫn dắt hậu thế hay để tạ ơn khi công việc thành công.
Với Tổ tiên và những đấng Tối cao vô hình thì sự sinh hoạt ăn uống chỉ bằng “hương hoa” không giống như sự ăn uống của người thường và con cháu cúng dường là đem hương vị của món đồ dâng lên thành kính tưởng niệm để tri ân và báo ân rồi lại “thụ lộc” chứ có mất đi đâu. Nên không cần mâm cao cỗ đầy, bày vẽ tốn kém, cốt là tấm lòng và cách bầy xếp, khấn cầu!
3. Tác dụng:
Việc thờ cúng lễ bái nhằm nhớ và báp ơn những đấng sinh thành, những người đã từng hy sinh, đã giáo hoá tạo nên chúng ta cũng như gây dựng nên dòng họ, Tông Môn của mình hoặc tạo cho ta niềm tin trong cuộc sống.
Đồng thời việc làm đúng đắn nay giúp giáo dục con cháu về cội nguồn, thiêng liêng hóa Tông Đường để tự hào, tiếp nối sự nghiệp hiển vinh dòng họ, môn phái, quê hương, quốc gia….
Việc thờ cúng lễ bái có thể nhận được sự “Phù hộ độ trì” (H: 扶護度持, A: To aid and to protect, P: Aider et protéger) của Tiên Tổ, các Đấng Thần, Thánh đối với những người hành lễ. Khi đó đối tượng được thờ cúng sẽ che chở, bảo vệ, chữa trị cho đối tượng hành lễ khi gặp khó khăn, nguy hiểm, mắc bệnh hay ngăn ta làm điều ác, khuyến khích làm việc Thiện!
Đây còn là kết quả của quá trình sử dụng năng lực tâm linh thành kính, biến lễ vật hiến cúng thành dưỡng khí và chuyển dưỡng khí đó thành chất liệu dưỡng sinh để mang đến cho người mình cúng qua hệ thống tâm linh, năng lực cầu nguyện trên đường giây Tâm Linh thì người mình cúng sẽ được ảnh hưởng ngay. Và khi đó người mình cúng sẽ có khả năng phù giúp mình hiệu quả hơn!
Nhưng muốn phát huy được tác dụng của THỜ CÚNG LỄ BÁI thì điều cốt nhất là phải có Tâm thành, có đức Tin, phải Chân thật, cần Đúng cách!
4. Địa điểm:
4.1. Nhà thờ:
Làng xã có Am, Miếu, Ðền, Chùa, Nhà Nguyện, Nhà Thờ, Toà Thánh…; gia đình, gia tộc có nhà thờ họ…là những công trình kiến trúc dùng để thờ cúng và tiến hành việc lễ bái. Với Việt Nam, ta là nước có thể nói duy nhất, có địa điểm thờ Quốc Tổ chung cả nước- đó là quần thể khu vực Đền Hùng.
Từ đường (H: 祠堂, A: The ancestral temple, P: Le temple des ancêtres) là nhà thờ tổ tiên của một dòng họ. Với mỗi gia đình việc thờ cúng ông bà, bố mẹ thường thực hiện tại nhà trưởng nam hoặc người lập tự và thực hiện đúng kỉ niệm ngày mất. Nay do con cái thường ở xa nới sinh thành và bận nhiều việc nên các năm thứ 5, 15, 25…gọi là giỗ chẵn, năm thứ 10, 20, 30...gọi là giỗ tròn sẽ làm lớn hơn, con cháu đông đủ; các năm khác con cháu ở xa có thể thực hiện nghi thức giỗ vọng hay có thể luân phiên từng nhà, từng khu vực để anh em rõ gia cảnh.
Nếu Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Am thiên về tính Âm, là “vãng sinh đường” cho khách thập phương được đặt ở nơi u tịch, thâm nghiêm, cách chỗ quần cư thì Từ đường hay Gia đường lại mang tính Dương, nên dựng nơi gần con cháu.
4.2. Gian thờ:
Đối với người Việt, nó gần như trở thành một thứ tôn giáo: không gia đình nào không có bàn thờ tổ tiên trong nhà. Bàn thờ được đặt trong gian thờ.
Bản chất trường khí phòng thờ thuộc tính âm, hướng nội, không ưa sự phô trương. Ngay cả trong ngày giỗ hay tết thì thờ cúng cũng là việc riêng của gia đình đó, người ngoài muốn đến thắp nén nhang phải xin phép gia chủ. Về ngũ hành thì bàn thờ thuộc hành Hỏa và Mộc là hai hành hướng lên cao và cần sự chăm sóc mỗi ngày lại mang tính hướng nội, không cần phải đặt ngay trong phòng khách và theo phong thủy tốt nhất là đặt phòng thờ ở tầng áp mái. Hoặc đặt nơi trang trọng và cùng hướng hợp mệnh chủ.
Trong nhà ở dân gian truyền thống, bàn thờ cố định tại Trung Cung (khu vực trung tâm của nhà). Bước vào cửa chính có thể gặp bàn thờ và bộ bàn ghế tiếp khách hay chiếc sập ở gian giữa. Điều đó trở nên quen thuộc, hài hòa với cấu trúc không gian nhà ở truyền thống vốn có hàng hiên và sân vườn bao bọc.
Nhà ở hiện đại có diện tích và cấu trúc không gian khác xưa, điều kiện sống và quan niệm trong sinh hoạt nay cũng có nhiều thay đổi, cách bố trí bàn thờ trở nên đa dạng và cũng có nhiều vấn đề hơn. Nhà phố hiện nay phổ biến cách đặt phòng thờ trên tầng thượng, vừa thoáng khí vừa có khoảng rộng sân thượng để tập trung nhiều người vào các dịp giỗ tết, giảm các va chạm trong sinh hoạt hàng ngày. Nhưng cũng có một số gia đình không muốn đưa bàn thờ lên tầng cao với lý do: khó khăn cho người lớn tuổi khi chăm lo hương khói, quét dọn bàn thờ, và đặt lên cao quá sẽ có cảm giác xa cách. Không gian thờ cúng mang tính tâm linh luôn cần đặt yếu tố gần gũi và giáo dục truyền thống lên hàng đầu để kết nối các thế hệ và giữ vững gia phong nề nếp gia đình bên cạnh yếu tố hướng nội. Trường hợp quá khó khăn hoặc nhà trệt, căn hộ chung cư… thì có thể gắn bàn thờ liền với không gian phòng khách nhưng phải có giải pháp thoát khói và chống ố vàng trên trần (như dùng tủ thờ có nóc, dùng tấm kính ngăn phía trên, bàn thờ kề cận cửa thông gió…).
Như vậy tùy theo hoàn cảnh gia đình mà cách xếp phòng thờ, bàn thờ ở vị trí nào trong nhà cần linh hoạt phù hợp trên tinh thần trang nghiêm, ít bị ảnh hưởng bởi các sinh hoạt khác.
Như một lẽ bình thường, ai ra ở riêng cũng lập bàn thờ và khi chuyển đến nhà mới việc lo đầu tiên là chuyển Bếp, tiếp đến là bàn thờ sau mới tính tiếp chuyển thứ khác.
Về kiểu dáng, có loại bàn thờ có 4 chân (với nhà có gian thờ riêng), loại bàn thờ gắn trên tường (với gia đình ở tập thể, chung cư) hay đặt trên nóc tủ chè, tủ li…Hoặc ngày nay, nhiều gia đình, dòng họ hay cả Đền, Chùa, Miếu đã xây một cái bàn thờ bằng bê tông, lát gạch men, dưới gầm bàn thờ là ngăn hộc đựng lễ vật và tài sản quý báu. Hay như xóm An Phong của tôi: bác, cha, chú tôi trong những năm 1970 đã liên kết 2 cột quân, 2 cột hiên của gian giữa nhà bằng các xà và lát gỗ nên tạo một gian thờ vững chãi và đủ lớn. Bộ Tam sơn, mâm bồng, lọ hoa, nậm rượu, chung nước…là chúng tôi sắm về sau. Dù kiểu gì cũng cần có loại bàn thờ 2 tầng: tầng trên đặt đồ tế khí, đồ chay; tầng dưới đặt lễ mặn khi cúng.
Chú ý sự giản dị và mỹ thuật, tránh làm bàn thờ theo lối trang trí lòe loẹt cầu kỳ. Đừng tưởng sắm một bàn thờ rất sang trọng lộng lẫy là có lòng với các đấng Thiêng liêng mà hoàn toàn ngược lại khi gia chủ luôn cứ để hương tàn khói lạnh, bụi chăng, nhện bám!. Bàn thờ cốt trang trọng, vững chắc, phù hợp với gia cảnh và hằng ngày phải có nhiệm vụ chăm sóc bàn thờ cũng như chăm sóc phòng khách, đừng tỏ thái độ khinh thường nơi thờ tự và mỗi khi chiêm bái.
Về Công năng, ngoài bàn thờ Gia tiên, có nhà thêm bàn thờ Thần linh, ban thờ Phật, ban thờ Thần tài, thờ Thổ công, thờ Bà Cô- Ông Mãnh, ban thờ Mẫu, ông Hoàng, bà Chúa, các Cô-Cậu, thờ Tiền chủ…. Nhưng nhiều nhà chỉ làm ban thờ chung-Ban thờ Tổ hợp, như gia đình tôi. Việc bố trí ban thờ Tổ hợp hay các ban thờ riêng rẽ cần hợp cách để phát huy tác dụng, tránh thất thố!
Ban thờ Phật: Thường được lắp đặt nơi cao nhất trong phòng thờ của gia đình, trên bàn thờ có ảnh của vị Phật mà mình muốn thờ (Thông thường các tín đồ chỉ thờ ảnh Phật, các Thày hay Sư mới thờ tượng). Chính giữa có bát nhang hay lư trầm. Bên cạnh có bình hoa và đĩa trái cây, 3 chung nước, cặp đèn cầy hay đèn điện. Tuyệt đối không được đặt đồ lễ mặn và giấy tiền vàng bạc trên bàn thờ Phật. Khi cúng Phật, phải dùng đồ chay.
Bàn thờ Thần linh: Thường được đặt chung với bàn thờ Gia tiên. Bát hương thờ Thần linh đặt chính giữa và cao hơn hai bát nhang còn lại. Đằng sau có bài vị (H: 簰位, A: The tablet of the deceased, P: La tablette du défunt) thường chỉ có một chữ “Thần” 神 hay 4 chữ “Thần Tiên Linh ứng” 神仙灵應.
Trước bát nhang để 3 chén nước trên cùng một cái khay bằng sứ dài. Về cuối năm hay đầu năm, người ta thường cúng một bộ đồ quan Thần linh bao gồm mũ, áo, hia, ngựa theo ngũ hành (Vàng, trắng, đen, xanh, đỏ) và 1000 vàng hoa theo màu bộ quan Thần linh. Thờ Thần có thể cúng mặn như xôi, gà...
Bàn thờ Gia tiên: thờ những người đã mất thuộc dòng họ mình.
Dù là bàn thờ nhằm công năng gì cũng chú ý khi chọn mua, đặt đóng, nơi để và cáh bài trí cũng như chăm sóc bàn thờ.
Trước hết, chú ý nơi đặt:
- Không được đặt bàn thờ gia tiên cao hơn bàn thờ Thần, Tiên.
- Không được thờ Quan Âm và Quan Đế (Quan Vân Trường) cùng một nơi hay đối diện nhau.
- Không được kê giường ngủ đối diện với bàn thờ.
- Không được kê bàn thờ sát nhà tắm, đặt ở lối đi.
- Không để Bàn thờ đặt trên nóc tủ, bởi mở tủ luôn sẽ động!
Chọn Bàn thờ:
- Không dùng gỗ xấu, đã dùng rồi, gỗ tạp dễ mối mọt.
- Tốt nhất dùng loại gỗ tốt, đủ độ cứng để chống mối mọt.
- Nên đóng bàn thờ mà tầng dưới có thể kéo ra được khi đặt đồ mặn.
- Kích thước bàn thờ nên đặt ở cung có năng lượng tốt theo Thước Lỗ Ban, tránh rơi vào cung Tử biệt, Ly hương, Bệnh lâm…Hiện có mấy loại thức Lỗ Ban nhưng khi làm bàn thờ phải dùng thước đo đồ đặc (đo phủ bì, chứ không phải loại thước đo thông thuỷ). Kích thước tốt có thể là: rộng 60,5 cm (益利 Ích lợi, Hoành tài); Dài 87 cm (Tài đức, 喜事 Hỉ sự); cao 1,53 (Quan, 六合 Lục hợp). Hiện nay rất nhiều cơ sở đóng đồ thờ cúng, họ cũng theo sách mà làm, người thợ có lương tâm sẽ chọn gỗ tốt, kích thước hay!
Tuỳ gia cảnh mà thông thường trên bàn thờ có thể là Tam sự (bát hương, hai cây đèn, tam sơn đặt rượu, nước và trầu cau) hay Ngũ sự (bát hương, hai cây đèn, lọ hoa, mâm ngũ quả, tam sơn đặt rượu, nước và trầu cau). Cách xếp đặt các tự khí 祀器 trên cũng có khác biệt với mỗi gia đình, vùng miền.
Ông tôi mất từ khi cha tôi còn nhỏ nên không rõ thế nào chứ từ đời cha, chú tôi, gia đình tôi và trong nội tộc ở quê đã dùng Bàn thờ Tổ hợp nên đến chúng tôi cũng theo như vậy, trừ một vài em do làm ăn, theo nơi cư trú có thêm các ban thờ khác. Việc bài trí khá đơn giản (có lẽ do eo hẹp về kinh tế), không có Bài vị, nhưng không thiếu được là 3 bát hương:
Bát nhang thờ Thổ Công-Thần linh: đặt cao hơn, ở chính giữa.
Bát nhang thờ Gia tiên: Đây chính là thờ 九玄七祖 trong sách. Bát nhang Cửu Huyền Thất Tổ nội ngoại tôn thân này được đặt ở phía tay phải người đứng lễ, hay tay trái từ trong bàn thờ nhìn ra.
Bát nhang Bà Cô - Ông Mãnh Tổ 婆祖翁猛姑 dùng để thờ những người chết trẻ, chưa vợ, chưa chồng nhiều đời nhiều kiếp của gia tộc, được đặt ở phía bên tay trái người cúng hay bên tay phải từ trong bàn thờ nhìn ra.
Ba bát hương trên gia đình tôi đặt sát tường, ở phía trong ban thờ có lợi thế là vững, ít bị xô lệch và dễ bổ xung các đồ lễ, nhất là dịp Tết nhưng trở ngại là phía trước đó lại bầy mâm Ngũ quả nên khi cắm hương gặp khó khăn.
Bàn thờ người mới chết
Những người mới mất chưa được thờ chung với tổ tiên mà được lập một bàn thờ riêng tại gian thờ hoặc gian nhà ngang. Được bài trí tương đối sơ sài: một bát nhang, bài vị (hoặc ảnh), lọ hoa, chén nước, ngọn đèn... Trong vòng 49 (終七,tức lễ Chung thất) ngày, người ta đều thắp hương cơm canh trước khi gia đình ăn cơm, mời người mới mất thụ hưởng gọi là cúng cơm (朝夕面, Triêu tịch diện). Lúc này, linh hồn người chết còn quyến luyến người thân, "hồn vía còn nặng" chưa thể siêu thoát được, vẫn còn luẩn quẩn quanh nhà. Những người sống không muốn tin vào sự thật là họ vừa mới mất đi một người thân, làm vậy để dịu nỗi buồn. Nhưng có nơi thủ tục này thực hiện vào sau 100 ngày (卒哭,tức lễ Tốt khốc nghĩa là thôi khóc).
Sau 49 ngày, bát nhang người mới mất sẽ được rước lên bàn thờ tổ tiên. Sau lễ trừ phục (còn gọi là đàm tế 除服) bàn thờ người mới mất sẽ được loại bỏ cùng những đồ thờ riêng, đưa ảnh chân dung và bát nhang lên bàn thờ tổ tiên, đặt hàng dưới. Trường hợp không có bàn thờ tổ tiên thì sẽ vẫn giữ lại như cũ, chỉ cần yết cáo tổ tiên lên bàn thờ tổ.
Đối với bàn thờ Thần Tài và Ông Địa nên đặt ngay tại lối vào chính và ở dưới đất vì việc thắp nhang, nhất là nhang thơm, có tác dụng xua đuổi không khí ẩm ướt, côn trùng vào những buổi sáng sớm hoặc chiều tối (là khoảng thời gian chuyển tiếp Âm Dương, ánh sáng nhá nhem, vi khuẩn nhiều và độ ẩm tăng) đồng thời theo dân gian thì như vậy sẽ “nghênh tiếp Thần Tài” được trực tiếp hơn. Bàn thờ này mới phổ biến vài năm nay và chủ yếu ở các gia đình có kinh doanh.
5. Đồ lễ:
Những vật phẩm bầy ra khi thờ cúng còn được gọi là “lễ vật” (H: 禮物, A: The offering, P: L'offrande) tượng trưng Tam bảo của con người là: Tinh (thể xác), Khí (chân thần), Thần (chân linh).
Vật không thể thiếu là nén hương, cách thắp hương thành tâm nên mới gọi là “Tâm hương” (H: 心香, A: The incense of true heart, P: L'encens du vrai coeur) và luôn thắp với số lẻ để cắm vào bát hương.
Tiếp, khi cúng lễ bao giờ cũng có nến, nước, rượu, hoa quả, trầu cau, gạo, muối, cơm canh, vật phẩm mà khi sống người hưởng giỗ ưa thích cùng với những đồ tế lễ khác như tiền Địa phủ và mã (quần áo đồ dùng làm bằng giấy). Sau khi tàn tuần hương, đồ vàng mã và tiền âm phủ được đem đốt, được gọi là “hoá vàng”, còn chén rượu cúng thì đem rót xuống đống tàn vàng. Tục truyền rằng làm như vậy người chết mới nhận được đồ cúng tế, vì hương khói bay lên trời, nước (rượu) hòa với lửa mà thấm xuống đất. Hành động đó được cho là sự hòa quyện Nước-Lửa (âm dương) và Trời-Đất-Nước (Tam Tài) mang tính triết lý sâu sắc.
Những gia đình có điều kiện sẽ sắm đồ mặn tam sinh (H: 三牲, A: The three animals of sacrifice, P: Les trois animaux de sacrifice ) gồm 3 con vật làm thịt cúng tế là: bò, lợn, dê hoặc trâu, lợn, dê hay có người hiểu là đủ gia súc, gia cầm và thuỷ cầm. To nhỏ tuỳ điều kiện nhưng bữa cúng cũng phải có chén cơm xới đầy có ngọn, úp lồng một cái chén khác lên trên gọi là chén cơm lồng cùng trứng gà luộc đã bóc vỏ dẹt ra trên đĩa với một ít muối. Vì thế mới có tên cúng giỗ là “cúng cơm”. Chú ý rằng thành ngữ “Vô vật bất linh” 無物不靈 thường dùng để chế giễu những ông quan tham nhũng, nếu không có lễ vật trọng hậu mang đến cho quan thì công việc không xong. Nhưng cũng là nói về việc cầu cúng, không có lễ vật thì cầu không thiêng. Đồ mặn sau khi hạ lễ sẽ được mọi người dự cúng “thụ lộc”.
Trong việc Thờ, việc Cúng, việc Giỗ thì làm to hay nhỏ, đồ lễ nhiều hay ít không quan trọng mà cốt là “Lễ bạc tâm thành” 禮薄心誠 lễ vật đơn sơ nhưng lòng thành thật tín ngưỡng và thực hiện đúng nghi thức mới có hiệu quả.
Nghi thức (H: 儀式, A: The protocol, P: Le protocole) là cách thức làm lễ cho đúng phép trong thờ cúng tuy không quá cầu kỳ nhưng đã được quy định rõ trong Thọ Mai Gia lễ. Trong đó đáng chú ý là ngày Tiên thường, Tiểu tường, Đại tường, Cát nhật, các vấn đề về Gửi giỗ, Phẩm vật, Văn khấn, Hóa vàng.
6. Tiến hành :
Trên bàn thờ đ
èn thờ được thắp trước, sau đó là thắp nhang rồi mới sắp đặt đồ lễ. Khi đồ lễ đã đủ và đặt lên ban thờ, gia trưởng quần áo chỉnh tề, xem xét và rà soát lại các lễ vật có đầy đủ rồi mới bước vào chiếc chiếu trải trước bàn thờ, lễ bốn lạy, quỳ xuống, hai tay chắp lại vòng ngang trán. Đó là “Cúc cung bái” (H: 鞠躬拜, A: To prostrate oneself, P: Se prosterner) là cúi mình lạy xuống.
Một trong hai người chấp sự, thường là em hay con cháu gia trưởng, đứng hai bên bàn thờ, lấy ba nén hương châm lửa thắp, đưa cho gia trưởng vái một vái dài rồi trao lại đem cắm lên bát hương. Đó là “Tiến tước”.
Người chấp sự thứ hai mở nút bình rượu, rót rượu lên ba chén để trên đ
ài thực hiện nghi thức “Tiến tửu” (H: 薦酒, A:To offer up the wine, P: Offrir du vin), xong đâu vào đó rồi gia trưởng làm lễ khấn.
Hiện nay, do trang phục, do không gian thờ cúng…để đơn giản gia trưởng tự thắp hương (luôn là số lẻ) cắm vào bát hương, lui ra đứng tước ban thờ vái 3 vái rồi đọc văn khấn. Khi khấn xong lễ 4 lễ thêm 3 vái gọi là 4 lễ rưỡi. Tiếp theo các thành viên khác trong gia đình đến trước ban thờ 4 lễ rưỡi. Nghi thức 4 lễ rưỡi thực hiện bằng 3 vái dài, 3 vái ngắn.
Khách đến dự, con cháu cử người nhận đồ lễ đặt lên ban thờ, đứng đáp lễ; khách thực hiện 4 lễ rưỡi rồi quay sang vái người đáp lễ.
Người Việt ta có câu: “Thờ thì dễ, giữ lễ thì khó”, do vậy cần phải hiểu về tài ý nghĩa và tác dụng của lễ bái.
7. Lễ Bái:
7.1. Lễ:
Về ngữ nghĩa, “Lễ” 禮 chính là khuôn mẫu, là cách bày tỏ kính ý bằng cử chỉ hay bằng cúng tế, nó còn là những quy tắc nhất định về sắp đặt, trình tự trong Quan (冠 chào mừng đứa bé mới ra đời), Hôn (婚 lễ thức hôn nhân của gia đình),Tang (喪 nghi thức tiễn đưa một người về chầu tiên tổ) và Tế (祭 hình thức tế lễ để tưởng nhớ ông bà tổ tiên) nhằm thể hiện sự tôn kính.
Về nội dung, nó bao gồm:
Hình thức: là sự trang trí, trưng bày cho một biểu tượng mà qua đó ta có thể phân biệt được “Lễ” đ&
(Bạn đang tham khảo bài viết trên trang www.noithatlenguyen.com)
NỘI THẤT LÊ NGUYỄN
Showroom: 529 Nguyễn Oanh, P17, Quận Gò Vấp, Tp.Hồ Chí Minh (Gần Cầu An Lộc)
Xưởng: KP3, Biên Hòa, Đồng Nai
Điện thoại: (028) 66 8383 47 - (028) 6651 4969
Hotline: 0916 774 214
Website: www.noithatlenguyen.com - Email: noithatcaocaplenguyen@yahoo.com
Facebook: https://www.facebook.com/noithatgolenguyen
Nội thất gỗ: Salon Gỗ, Giường gỗ, Tủ áo gỗ, Đồng hồ cơ Gỗ, Bàn ăn gỗ...
Đồ Thờ cúng: Tủ thờ, Bàn thờ, Bàn thờ treo tường, Bàn thờ Ông địa, Tượng gỗ, Đồ thờ khác...
